Cách chẩn đoán ung thư tinh hoàn02/12/2015 - 0
-
Tham gia 30/07/2015
Ung thư tinh hoàn thường được nhận biết đầu tiên bằng sự xuất hiện của một khối u cứng, không đau ở tinh hoàn. Trong phần lớn các trường hợp, khối u sẽ không phải là ung thư nhưng vẫn cần được bác sĩ đánh giá. Điều này thường bao gồm siêu âm để kiểm tra sự hiện diện của khối u và xét nghiệm máu có thể phát hiện ra các protein được coi là chất chỉ điểm khối u. Nếu nghi ngờ ung thư, một cuộc phẫu thuật được gọi là cắt bỏ tinh hoàn bẹn triệt để có thể được thực hiện để loại bỏ cả khối u và tinh hoàn bị ảnh hưởng để phân tích trong phòng thí nghiệm.
Các xét nghiệm hình ảnh khác có thể được sử dụng để xác định xem liệu ung thư đã lan ra ngoài vị trí của khối u ban đầu hay chưa và để đánh giá mức độ hiệu quả của việc điều trị ung thư .
Hình ảnh
Một siêu âm thường là công cụ đầu tiên bác sĩ sẽ sử dụng để chẩn đoán ung thư tinh hoàn. Nó liên quan đến việc sử dụng một thiết bị giống như cây đũa phép, được gọi là bộ chuyển đổi, phát ra sóng âm tần số cao để tạo ra hình ảnh của các cơ quan nội tạng trên màn hình máy tính. Các kết quả đọc được có thể được sử dụng để phân biệt giữa khối u, khối u có vẻ rắn chắc hơn và khối u lành tính, khối u sẽ không.
Siêu âm cũng có thể giúp xác định xem khối u tinh hoàn có nhiều khả năng là lành tính hay ác tính.
Siêu âm là một xét nghiệm tương đối đơn giản giúp bạn không bị nhiễm phóng xạ. Bạn chỉ cần nằm xuống bàn khi gel dẫn điện được bôi vào bìu. Sau đó, kỹ thuật viên sẽ di chuyển đầu dò dọc theo da để xác định bất kỳ bất thường nào và thỉnh thoảng chụp "ảnh chụp nhanh" để đánh giá.
Phòng thí nghiệm và Kiểm tra
Một số xét nghiệm máu đơn giản có thể được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán ung thư tinh hoàn. Chúng hoạt động bằng cách phát hiện các protein do cơ thể sản xuất để phản ứng với bệnh ung thư, được gọi là dấu hiệu khối u. Các xét nghiệm không chỉ cung cấp bằng chứng về sự phát triển của ung thư mà còn có thể giúp phân biệt giữa các loại ung thư khác nhau.
Gonadotropin màng đệm ở người (hCG). Tăng hCG ở nam giới có thể gây ra một triệu chứng phổ biến của ung thư tinh hoàn được gọi là nữ hóa tuyến vú, đặc trưng bởi sự mở rộng bất thường của mô vú.
Alpha-Fetoprotein (AFP)
Như tên cho thấy, alpha-fetoprotein (AFP) là một loại protein có vai trò trong sự phát triển của thai nhi. Trong khi chức năng của nó ở người lớn vẫn chưa rõ ràng, nồng độ AFP thường tăng với các dấu hiệu không phải nhưng không phải với dấu hiệu thuần túy. Do đó, bất kỳ sự gia tăng nào của AFP đều có thể được coi là một dấu hiệu mạnh mẽ của một bệnh không phải là bán ác tính.
Hormone lactase Dehydrogenase (LDH)
Hormone lactose dehydrogenase (LDH) là một chất chỉ điểm khối u ít đặc hiệu hơn nhưng là chất chỉ điểm trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển khối u. Mức độ cao của LDH không phải là chẩn đoán của bệnh ung thư tinh hoàn, nhưng nó gợi ý mạnh mẽ rằng một số loại ung thư đang ở đó.
LDH cao cũng có thể gợi ý rằng khối u đã di căn, mặc dù có một số tranh luận về việc liệu điều này có áp dụng cho tất cả các bệnh ung thư hay không. LDH cũng có thể tăng cao để phản ứng với cơn đau tim, viêm màng não, viêm não, HIV và một số bệnh tự miễn.
Thủ tục
Nhiều loại ung thư được chẩn đoán bằng cách lấy một mẫu mô, được gọi là sinh thiết, có thể được đánh giá dưới kính hiển vi. Điều này hiếm khi được thực hiện với khối u tinh hoàn vì sự phá vỡ các tế bào có thể khiến ung thư di căn.
Thay vào đó, nếu kết quả siêu âm và xét nghiệm máu gợi ý nhiều đến ung thư, bác sĩ sẽ thường xuyên lựa chọn một thủ thuật được gọi là phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn bẹn triệt để. Đây là phẫu thuật cắt bỏ cả khối u và tinh hoàn bị ảnh hưởng.
Mặc dù phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn có vẻ như là một bước cực kỳ quan trọng để kiểm tra ung thư, nhưng nó chỉ được thực hiện nếu các xét nghiệm khác có dấu hiệu chẩn đoán chính xác.
Giai đoạn bệnh
Nếu các báo cáo bệnh lý cho thấy kết quả dương tính với ung thư tinh hoàn , bệnh được xác nhận. Bước tiếp theo là phân giai đoạn ung thư. Việc phân giai đoạn được sử dụng để xác định mức độ lan rộng của bệnh ác tính khắp cơ thể, từ đó thông báo quá trình điều trị.
Ngoài các xét nghiệm máu và đánh giá mô, bác sĩ sẽ chuyển sang một số xét nghiệm hình ảnh thông thường để xác định mức độ di căn của ung thư. Trong số đó là chụp cắt lớp vi tính (CT). Chụp cộng hưởng từ (MRI). Chụp cắt lớp phát xạ Positronic (PET)
Dựa trên kết quả của xét nghiệm hình ảnh, dấu hiệu khối u và đánh giá mô, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ phân loại bệnh. Vào tháng 1 năm 2018, Ủy ban Hỗn hợp về Ung thư Hoa Kỳ (AJCC) đã ban hành hướng dẫn cập nhật về giai đoạn ung thư tinh hoàn, được chia nhỏ như sau:
Giai đoạn 1 có nghĩa là ung thư chỉ giới hạn trong tinh hoàn và chưa lan đến các mô hoặc hạch bạch huyết lân cận.
Giai đoạn 2 có nghĩa là ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết lân cận và có thể là các hạch bạch huyết cạnh động mạch chủ ngay dưới cơ hoành.
Giai đoạn 3 có nghĩa là ung thư đã di căn đến các cơ quan ở xa.
Việc phân loại khối u (tế bào mầm, mô đệm hoặc hỗn hợp), cũng như các phân loại phụ (u ác tính so với không u ác tính), cũng sẽ là yếu tố quyết định quá trình điều trị thích hợp.
Chẩn đoán phân biệt
Ung thư tinh hoàn được coi là không phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 0,5% nam giới nói chung. Theo Viện Ung thư Quốc gia, con số này tương đương 5,9 trường hợp trên 100.000 nam giới mỗi năm.
Điều này cho thấy nguy cơ ung thư là khá thấp. Để phân biệt giữa ung thư tinh hoàn và các nguyên nhân có thể khác, bác sĩ có thể tiến hành các xét nghiệm bổ sung, đặc biệt nếu kết quả siêu âm và xét nghiệm chất chỉ điểm khối u trong máu của bạn là không thể kết luận.
Trong số các xét nghiệm có thể:
U nang tinh hoàn lành tính thường có thể dễ dàng phân biệt bằng cách xuất hiện của chúng trên siêu âm. Trong khi một khối u tinh hoàn thường có màu sẫm, thì theo định nghĩa của nó, một khối u tinh hoàn sẽ chứa đầy chất lỏng.
Viêm mào tinh hoàn, tình trạng viêm mào tinh hoàn và tinh hoàn, thường do một bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) và sẽ có đặc điểm là viêm, đỏ và đau không thường thấy ở ung thư tinh hoàn. Xét nghiệm STD và siêu âm (cho thấy lưu lượng máu đến tinh hoàn bị ảnh hưởng tăng lên) có thể được sử dụng để phân biệt hai bệnh.
Hydrocele, trong đó chất lỏng tích tụ trong bìu, thường do chấn thương hoặc nhiễm trùng. Nó có thể được phân biệt với ung thư tinh hoàn bằng cách xuất hiện trên siêu âm, trong đó khối u sẽ trong suốt chứ không rắn và bao gồm toàn bộ tinh hoàn, thay vì chỉ một phần của nó.
Thoát vị bìu, trong đó ruột phình ra qua một điểm yếu bên dưới bìu, thường có thể được xác định bằng âm thanh ruột trên ống nghe. Mô thường cũng có thể được đẩy trở lại dễ dàng qua lỗ. Siêu âm thường có thể xác nhận thoát vị.
Spermatocele là sự hình thành "nang tinh" do tắc nghẽn trong mào tinh hoàn. Nó có thể được phân biệt với ung thư tinh hoàn ở chỗ khối u sẽ hoàn toàn độc lập với tinh hoàn và thường nằm ở một vị trí cụ thể (gần cực trên của tinh hoàn).
Xoắn tinh hoàn, xoắn tinh hoàn theo cách cắt đứt nguồn cung cấp máu có thể được phân biệt bằng sự xuất hiện cơn đau đột ngột và tư thế nằm nghiêng của tinh hoàn. Siêu âm thường có thể cho biết liệu có bất kỳ sự cản trở nào đối với nguồn cung cấp máu hay không.
Giãn tĩnh mạch thừng tinh, sự phình to bất thường của mạch máu trong bìu, thường có thể được phân biệt bằng độ căng của tĩnh mạch (lớn hơn 3 cm) và hướng ngược lại của dòng máu.