Hóa trị cho bệnh ung thư ống mật.12/06/2013 - 0
-
Tham gia 02/11/2012
Hóa trị (hóa trị) là điều trị bằng thuốc tiêu diệt ung thư thường được tiêm vào tĩnh mạch (IV) hoặc uống. Những loại thuốc này đi vào máu và đến tất cả các vùng của cơ thể, làm cho phương pháp điều trị này trở nên hữu ích đối với một số bệnh ung thư đã di căn đến các cơ quan ngoài ống mật. Vì thuốc đến được tất cả các vùng trên cơ thể nên đây được gọi là phương pháp điều trị toàn thân .
Chemo có thể giúp một số người bị ung thư ống mật, nhưng cho đến nay vẫn chưa rõ mức độ hữu ích của nó đối với loại ung thư này. Tuy nhiên, hóa trị có thể được sử dụng theo những cách sau:
- Sau khi phẫu thuật loại bỏ ung thư: Chemo có thể được sử dụng sau phẫu thuật (thường cùng với xạ trị) để cố gắng giảm nguy cơ ung thư tái phát. Đây được gọi là hóa trị bổ trợ .
- Trước khi phẫu thuật: Nó có thể được tiêm trước khi phẫu thuật đối với các bệnh ung thư có thể loại bỏ hoàn toàn. Chemo có thể thu nhỏ khối u đủ để cải thiện khả năng phẫu thuật thành công. Đây được gọi là điều trị bổ trợ mới .
- Là một phần của quá trình ghép gan: Chemo có thể được sử dụng để kiểm soát ung thư ống mật trong khi chờ ghép gan .
- Là một phần của phương pháp điều trị chính đối với một số bệnh ung thư tiến triển: Chemo có thể được sử dụng (đôi khi kết hợp với xạ trị) đối với các bệnh ung thư tiến triển hơn mà không thể cắt bỏ hoặc đã di căn sang các bộ phận khác của cơ thể. Chemo không chữa khỏi những bệnh ung thư này, nhưng nó có thể giúp mọi người sống lâu hơn.
- Là liệu pháp giảm nhẹ: Chemo có thể giúp thu nhỏ các khối u hoặc làm chậm sự phát triển của chúng trong một thời gian. Điều này có thể giúp làm giảm các triệu chứng của bệnh ung thư, chẳng hạn như bằng cách thu nhỏ các khối u chèn ép vào dây thần kinh và gây đau.
Các bác sĩ cho hóa trị theo chu kỳ, mỗi đợt điều trị sau đó là thời gian nghỉ ngơi để cơ thể có thời gian phục hồi. Chu kỳ chemo thường kéo dài khoảng 3 đến 4 tuần. Chemo thường không được khuyến khích cho những bệnh nhân có sức khỏe kém, nhưng bản thân tuổi cao không phải là rào cản đối với việc hóa trị.
Truyền động mạch gan (HAI).
Vì tiêm hóa chất vào tĩnh mạch không phải lúc nào cũng hữu ích đối với ung thư ống mật, các bác sĩ đã thử đưa thuốc vào ngay động mạch chính đi vào gan, được gọi là động mạch gan. Động mạch gan cũng cung cấp cho hầu hết các khối u ống mật, vì vậy việc đưa hóa chất vào động mạch này có nghĩa là sẽ có nhiều hóa trị đến khối u hơn. Sau đó, gan khỏe mạnh sẽ loại bỏ hầu hết lượng thuốc còn lại trước khi nó có thể đến phần còn lại của cơ thể. Điều này có thể làm giảm tác dụng phụ của hóa trị. HAI có thể giúp một số người bị ung thư không thể loại bỏ bằng phẫu thuật sống lâu hơn, nhưng cần phải nghiên cứu thêm. Kỹ thuật này thường phải phẫu thuật để đưa một ống thông vào động mạch gan, và nhiều người bị ung thư ống mật không đủ sức khỏe để thực hiện phẫu thuật này.
Hóa trị qua động mạch (TACE).
Thuyên tắc mạch là một thủ thuật đưa một chất vào mạch máu để giúp ngăn máu đến khối u. TACE sử dụng những hạt hóa trị cực nhỏ để làm điều này. Một ống thông được sử dụng để đưa các hạt vào động mạch "nuôi" khối u. Các hạt nằm ở đó để ngăn chặn dòng chảy của máu và tạo ra hóa trị. TACE có thể được sử dụng cho các khối u không thể cắt bỏ hoặc để điều trị ung thư ống mật tái phát sau phẫu thuật.
Thuốc điều trị ung thư ống mật.
Các loại thuốc được sử dụng thường xuyên nhất để điều trị ung thư ống mật bao gồm:
- 5-fluorouracil (5-FU)
- Gemcitabine (Gemzar ® )
- Cisplatin (Platinol ® )
- Capecitabine (Xeloda ® )
- Oxaliplatin (Eloxatin ® )
Trong một số trường hợp, 2 hoặc nhiều loại thuốc này có thể được kết hợp để cố gắng làm cho chúng hiệu quả hơn. Ví dụ, kết hợp gemcitabine và cisplatin có thể giúp mọi người sống lâu hơn là chỉ dùng gemcitabine đơn thuần.
Các tác dụng phụ có thể xảy ra của hóa trị liệu.
Thuốc chemo tấn công các tế bào đang phân chia nhanh chóng, đó là lý do tại sao chúng có tác dụng chống lại các tế bào ung thư. Nhưng các tế bào khác trong cơ thể, chẳng hạn như tế bào trong tủy xương (nơi tạo ra các tế bào máu mới), niêm mạc miệng và ruột, và các nang tóc, cũng phân chia nhanh chóng. Các tế bào này có thể bị ảnh hưởng bởi hóa trị, có thể dẫn đến các tác dụng phụ.
Các tác dụng phụ của hóa trị phụ thuộc vào loại và liều lượng thuốc được sử dụng, cách chúng được sử dụng và thời gian điều trị. Các tác dụng phụ có thể bao gồm:
- Rụng tóc
- Lở miệng
- Ăn mất ngon
- Buồn nôn và ói mửa
- Bệnh tiêu chảy
- Tổn thương dây thần kinh (bệnh thần kinh), có thể dẫn đến tê, ngứa ran và thậm chí đau ở bàn tay và bàn chân
- Tăng khả năng nhiễm trùng (do có quá ít bạch cầu)
- Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu (do có quá ít tiểu cầu trong máu)
- Mệt mỏi (do có quá ít tế bào hồng cầu)
Hỏi nhóm chăm sóc ung thư của bạn những gì bạn nên theo dõi. Hầu hết các tác dụng phụ là ngắn hạn và biến mất sau khi điều trị kết thúc. Thường có nhiều cách để giảm bớt những tác dụng phụ này. Ví dụ, có thể dùng thuốc để giúp ngăn ngừa hoặc giảm buồn nôn và nôn. Hãy chắc chắn hỏi bác sĩ hoặc y tá của bạn về các loại thuốc để giúp giảm tác dụng phụ.
Báo cáo bất kỳ tác dụng phụ nào mà bạn nhận thấy cho đội ngũ y tế của mình để họ có thể được điều trị ngay lập tức. Hầu hết các tác dụng phụ có thể được điều trị. Trong một số trường hợp, liều thuốc hóa trị có thể cần phải giảm hoặc có thể phải trì hoãn hoặc ngừng điều trị để giữ cho tác dụng không trở nên tồi tệ hơn.