Các lựa chọn điều trị cho ung thư túi mật giai đoạn 413/08/2016 - 0

   Làm thế nào là ung thư túi mật được phát triển?

   Giai đoạn ung thư túi mật giúp các bác sĩ xác định mức độ di căn của ung thư trong cơ thể và xác định phương pháp điều trị tốt nhất. Hệ thống cũng giúp tính toán số liệu thống kê về sự sống sót. Số giai đoạn càng thấp thì ung thư càng lan rộng, với giai đoạn đầu là 1 và giai đoạn nặng nhất là 4. Hệ thống phân giai đoạn và các yếu tố khác được xem xét để xác định giai đoạn ung thư túi mật như sau:

   Phương pháp TNM:

   Các loại ung thư hình thành khối u được phân giai đoạn bằng cách sử dụng hệ thống TNM và phương pháp tương tự cũng được sử dụng cho ung thư túi mật, TNM là viết tắt của khối u, nút và di căn.

   Khối u (T):

   Khối u (T) thường được sử dụng để phân loại kích thước của khối u nguyên phát nhưng trong trường hợp này, nó được sử dụng để phản ánh mức độ lan rộng của ung thư đến thành túi mật. Túi mật có một số lớp được liệt kê dưới đây theo thứ tự lớp trong cùng đến lớp ngoài cùng:

             Biểu mô, một lớp tế bào mỏng lót thành bên trong của túi mật.

             Lớp đệm, một lớp mô liên kết lỏng lẻo.

             Lớp cơ, một lớp mô cơ giúp túi mật co bóp để đẩy mật vào ống mật.

             Lớp quanh cơ, một lớp lót bên trong cơ được tạo thành từ các mô sợi.

             Thanh mạc tạo thành lớp bao bọc bên ngoài của túi mật và xuất phát từ phúc mạc (lớp niêm mạc của khoang bụng).

   Nút (N):

   Nút mô tả liệu ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết gần đó hay chưa. N0 đại diện cho không lây lan ung thư đến các hạch bạch huyết, N1 đại diện cho sự lây lan của ung thư đến các hạch bạch huyết lân cận và N2 là viết tắt của sự lây lan đến các hạch bạch huyết ở xa.

   Di căn (M):

   Điều này cung cấp thông tin về việc ung thư lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể, M0 đại diện cho không có di căn trong khi M1 là viết tắt của các khối u đã di căn.

   Ung thư túi mật giai đoạn IV:

   Giai đoạn IV là giai đoạn phát triển nhất của ung thư túi mật và sau đây là các giai đoạn phụ:

   Giai đoạn IVA: Khối u đã phát triển thành một trong những mạch máu chính nối với gan hoặc đã phát triển thành hai hoặc nhiều cấu trúc bên ngoài gan, nó có thể đã hoặc chưa lan đến các hạch bạch huyết lân cận nhưng chưa lan đến các cơ quan xa và giai đoạn là (T4, N0 hoặc N1, M0)

   Giai đoạn IVB: Ung thư có thể đã hoặc chưa lan ra khỏi túi mật nhưng đã ảnh hưởng đến bốn hoặc nhiều hạch bạch huyết nhưng chưa lan đến các cơ quan ở xa và giai đoạn là (bất kỳ T, N2, M0) hoặc ung thư có thể có hoặc không. lan ra ngoài túi mật hoặc đến các hạch bạch huyết nhưng đã lan đến các cơ quan ở xa và giai đoạn là (bất kỳ T, bất kỳ N, M1).

   Điều trị ung thư túi mật giai đoạn IV như thế nào?

   Ung thư túi mật giai đoạn IV có tiên lượng xấu và ung thư không thể chữa khỏi ở giai đoạn này và việc điều trị nhằm mục đích làm giảm các triệu chứng của bệnh nhân và làm cho họ thoải mái nhất có thể.

   Phẫu thuật giảm nhẹ:

   Điều này không nhằm mục đích điều trị ung thư mà để giảm bớt các vấn đề do bệnh gây ra cho bệnh nhân và sau đây là một số quy trình có thể được sử dụng như chăm sóc giảm nhẹ:

             Đặt stent hoặc ống thông mật: Do tắc nghẽn do ung thư, nếu mật không thể di chuyển từ túi mật hoặc gan vào ruột non, sự tích tụ của mật có thể gây ra vàng da. Một stent hoặc một ống thông có thể được đặt qua chỗ tắc nghẽn để cho phép sự di chuyển của mật.

             Đường nối mật: Tùy thuộc vào vị trí của khối u, một đường nối có thể được tạo ra thông qua phẫu thuật để loại bỏ tắc nghẽn để cho phép mật thoát ra khỏi gan và túi mật. Một cuộc bắc cầu kéo dài hơn một stent hoặc một ống thông nhưng bệnh nhân phải đủ sức khỏe để chịu được thủ thuật.

             Tiêm rượu: Các bác sĩ có thể làm chết các dây thần kinh truyền tín hiệu đau từ túi mật và vùng ruột đến não bằng cách tiêm rượu, điều này có thể được thực hiện trong một cuộc phẫu thuật hoặc như một thủ tục riêng biệt thông qua chụp CT.

   Hóa trị:

   Hóa trị sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư khắp cơ thể và được sử dụng trong điều trị ung thư túi mật nếu có cơ hội tái phát hoặc ung thư đã di căn quá nhiều và thường được khuyên dùng sau phẫu thuật để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại trong loại ung thư này.

   Xạ trị:

   Xạ trị liên quan đến việc tiêu diệt tế bào ung thư bằng bức xạ cường độ cao và cũng được sử dụng nếu các khối u được nhắm mục tiêu không giống như hóa trị liệu tiêu diệt tế bào ung thư ở tất cả các bộ phận cơ thể, tuy nhiên do nguy cơ liên quan đến bức xạ, nó chỉ được sử dụng trong trường hợp ung thư đã lan rộng hoặc có thể tái diễn. Nó có thể được sử dụng để loại bỏ các khối u gây ra vấn đề và làm tăng các triệu chứng.

Cùng ch đề