Kiểm tra chẩn đoán ung thư túi mật p2.28/07/2015 - 0

Chụp mật.

Chụp đường mật là một xét nghiệm hình ảnh xem xét các ống dẫn mật để xem chúng có bị tắc, hẹp hay giãn (mở rộng) hay không. Điều này có thể giúp cho biết liệu ai đó có thể có khối u chặn ống dẫn hay không. Nó cũng có thể được sử dụng để giúp lập kế hoạch phẫu thuật. Có một số loại đường mật, mỗi loại có những ưu và nhược điểm khác nhau.

Chụp mật tụy cộng hưởng từ (MRCP): Đây là một cách để có được hình ảnh của đường mật với cùng một loại máy được sử dụng cho MRI tiêu chuẩn. Không sử dụng ống nội soi hoặc thuốc cản quang IV, không giống như các loại chụp đường mật khác. Bởi vì nó không xâm lấn (không đưa gì vào cơ thể của bạn), các bác sĩ thường sử dụng MRCP nếu họ chỉ cần hình ảnh của đường mật. Thử nghiệm này không thể được sử dụng để lấy mẫu sinh thiết của các khối u hoặc để đặt các stent (ống nhỏ) trong các ống dẫn để giữ chúng mở.

Chụp mật tụy ngược dòng qua nội soi (ERCP): Trong thủ thuật này, bác sĩ đưa một ống dài, mềm dẻo (ống nội soi) xuống cổ họng, qua dạ dày và vào phần đầu tiên của ruột non. Điều này thường được thực hiện trong khi bạn đang dùng thuốc an thần (cho thuốc để làm bạn buồn ngủ). Một ống thông (ống) nhỏ được đưa ra khỏi đầu của ống nội soi và vào ống mật chủ. Một lượng nhỏ thuốc cản quang được tiêm qua ống thông. Thuốc nhuộm giúp phác thảo đường mật và ống tụy khi chụp X-quang. Hình ảnh có thể cho thấy sự thu hẹp hoặc tắc nghẽn của các ống dẫn này. Xét nghiệm này xâm lấn hơn MRCP, nhưng nó có ưu điểm là cho phép bác sĩ lấy mẫu tế bào hoặc chất lỏng để xét nghiệm. ERCP cũng có thể được sử dụng để đặt một stent (một ống nhỏ) vào một ống dẫn để giúp nó luôn thông thoáng.

Chụp đường mật qua da (PTC): Để thực hiện thủ thuật này, bác sĩ đưa một cây kim mỏng, rỗng qua da bụng và vào ống mật trong gan của bạn. Bạn được cung cấp thuốc qua đường truyền tĩnh mạch để làm bạn buồn ngủ trước khi thử nghiệm này. Thuốc gây tê cục bộ cũng được sử dụng để làm tê khu vực trước khi đưa kim vào. Thuốc cản quang sau đó được tiêm qua kim, và chụp X-quang khi nó đi qua đường mật. Giống như ERCP, xét nghiệm này cũng có thể được sử dụng để lấy mẫu chất lỏng hoặc mô hoặc đặt một stent (ống nhỏ) vào ống mật để giúp nó luôn mở. Bởi vì nó xâm lấn hơn, PTC thường không được sử dụng trừ khi ERCP đã được thử hoặc không thể thực hiện được vì một số lý do.

Chụp mạch.

Chụp mạch hay chụp động mạch là một xét nghiệm chụp X quang để xem các mạch máu trong và xung quanh gan và đường mật. Một ống nhựa mỏng gọi là ống thông được luồn vào động mạch và một lượng nhỏ thuốc cản quang được tiêm vào để phác thảo các mạch máu. Sau đó chụp x-quang. Hình ảnh cho thấy nếu dòng máu chảy vào bị tắc nghẽn ở bất kỳ đâu hoặc bị ảnh hưởng bởi khối u, cũng như bất kỳ mạch máu bất thường nào trong khu vực. Xét nghiệm cũng có thể cho biết liệu ung thư ống mật có phát triển xuyên qua thành mạch máu hay không. Thông tin này chủ yếu được sử dụng để giúp bác sĩ phẫu thuật quyết định xem có thể loại bỏ ung thư hay không và giúp lập kế hoạch phẫu thuật.

Chụp mạch cũng có thể được thực hiện bằng chụp cắt lớp (CT angiography) hoặc MRI (MR angiography). Chúng có xu hướng được sử dụng thường xuyên hơn vì chúng cung cấp thông tin về mạch máu mà không cần ống thông. Bạn vẫn có thể cần một đường truyền IV để thuốc cản quang có thể được tiêm vào máu của bạn trong quá trình chụp ảnh.

Các bài kiểm tra khác.

Các bác sĩ cũng có thể sử dụng các dụng cụ đặc biệt (nội soi) để đi vào cơ thể để có cái nhìn trực tiếp hơn về ống mật và các khu vực lân cận. Các phạm vi có thể được đưa qua các vết mổ nhỏ (vết cắt) hoặc qua các lỗ mở tự nhiên của cơ thể như miệng.

Nội soi ổ bụng.

Nội soi ổ bụng là một loại phẫu thuật. Bác sĩ đặt một ống mỏng có đèn chiếu sáng và một máy quay video nhỏ ở đầu (kính nội soi) qua một vết rạch nhỏ (vết cắt) ở phía trước bụng của bạn để quan sát đường mật, túi mật, gan và các cơ quan lân cận khác và khăn giấy. (Đôi khi có nhiều vết cắt được thực hiện.) Điều này thường được thực hiện trong phòng phẫu thuật trong khi thuốc được sử dụng để đưa bạn vào giấc ngủ sâu và không cảm thấy đau (gây mê toàn thân) trong khi phẫu thuật.

Nội soi ổ bụng có thể giúp bác sĩ lập kế hoạch phẫu thuật hoặc các phương pháp điều trị khác và có thể giúp xác định giai đoạn (mức độ) của ung thư. Nếu cần, các bác sĩ cũng có thể sử dụng các dụng cụ đặc biệt đưa vào qua các vết mổ để lấy mẫu sinh thiết ra xét nghiệm. Nội soi ổ bụng thường được thực hiện trước khi phẫu thuật loại bỏ ung thư, để giúp đảm bảo khối u có thể được loại bỏ hoàn toàn.

Nội soi đường mật.

Quy trình này có thể được thực hiện trong ERCP (xem ở trên). Bác sĩ đưa một ống sợi quang rất mỏng với một camera nhỏ ở đầu xuống qua ống lớn hơn được sử dụng cho ERCP. Từ đó nó có thể được điều động vào đường mật. Điều này cho phép bác sĩ xem bất kỳ tắc nghẽn, sỏi hoặc khối u nào và thậm chí sinh thiết chúng.

Sinh thiết.

Các xét nghiệm hình ảnh có thể gợi ý rằng bị ung thư ống mật, nhưng trong nhiều trường hợp, các mẫu tế bào hoặc mô ống mật được loại bỏ (sinh thiết) và được xem xét bằng kính hiển vi để chắc chắn về chẩn đoán.

Nhưng sinh thiết không phải lúc nào cũng được thực hiện trước khi phẫu thuật đối với ung thư ống mật chủ. Nếu các xét nghiệm hình ảnh cho thấy có khối u trong ống mật, bác sĩ có thể quyết định trực tiếp phẫu thuật và điều trị khối u đó là ung thư ống mật (xem phần Phẫu thuật Ung thư Ống mật ).

Các loại sinh thiết.

Có nhiều cách lấy mẫu sinh thiết để chẩn đoán ung thư ống mật.

Trong quá trình chụp đường mật: Nếu ERCP hoặc PTC đang được thực hiện, một mẫu mật có thể được lấy trong quá trình làm thủ thuật để tìm tế bào ung thư trong dịch. Các tế bào ống mật và các mảnh mô ống mật nhỏ cũng có thể được lấy ra ngoài bằng cách chải mật. Thay vì tiêm thuốc cản quang và chụp ảnh X quang (như đối với ERCP hoặc PTC), bác sĩ tiến hành một bàn chải nhỏ có tay cầm dài và linh hoạt thông qua nội soi hoặc kim. Phần cuối của bàn chải được sử dụng để cạo các tế bào và các mảnh mô nhỏ từ niêm mạc của ống mật. Sau đó chúng được xem xét bằng kính hiển vi.

Trong quá trình nội soi đường mật: Mẫu sinh thiết cũng có thể được lấy trong quá trình nội soi đường mật. Thử nghiệm này cho phép bác sĩ xem bề mặt bên trong của ống mật và lấy mẫu các khu vực nghi ngờ.

Sinh thiết bằng kim: Đối với xét nghiệm này, một cây kim mỏng, rỗng được đưa qua da và vào khối u mà không cắt da. (Da được gây tê trước bằng thuốc gây tê cục bộ.) Kim thường được dẫn vào vị trí bằng siêu âm hoặc chụp CT. Khi hình ảnh cho thấy kim nằm trong khối u, các tế bào và / hoặc chất lỏng được rút vào kim và gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra.

Trong hầu hết các trường hợp, điều này được thực hiện như một sinh thiết kim nhỏ (FNA), sử dụng một kim rất mỏng gắn vào ống tiêm để hút (hút) một mẫu tế bào. Đôi khi, FNA không nhận đủ tế bào để chẩn đoán xác định, do đó, sinh thiết kim lõi, sử dụng kim lớn hơn một chút để lấy mẫu lớn hơn, có thể được thực hiện.

Cùng ch đề