Liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư bàng quang.18/09/2012 - 0
-
Tham gia 14/06/2012
Liệu pháp miễn dịch là phương pháp điều trị sử dụng hệ thống miễn dịch của bệnh nhân để chống lại ung thư. Các chất do cơ thể tạo ra hoặc được tạo ra trong phòng thí nghiệm được sử dụng để thúc đẩy, chỉ đạo hoặc khôi phục khả năng phòng thủ tự nhiên của cơ thể chống lại bệnh ung thư. Phương pháp điều trị ung thư này còn được gọi là liệu pháp sinh học hoặc liệu pháp sinh học.
Có nhiều loại liệu pháp miễn dịch khác nhau:
• Các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch chặn các protein được gọi là điểm kiểm soát được tạo ra bởi một số loại tế bào của hệ thống miễn dịch, chẳng hạn như tế bào T và một số tế bào ung thư. PD-1 là một loại protein trên bề mặt tế bào T giúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch của cơ thể . PD-L1 là một loại protein được tìm thấy trên một số loại tế bào ung thư. Khi PD-1 gắn vào PD-L1, nó sẽ ngăn tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Các chất ức chế PD-1 và PD-L1 giữ cho các protein PD-1 và PD-L1 không gắn vào nhau. Điều này cho phép các tế bào T tiêu diệt các tế bào ung thư.
o Pembrolizumab và nivolumab là các loại chất ức chế PD-1 .
o Atezolizumab , avelumab và durvalumab là các loại chất ức chế PD-L1 .
Chất ức chế điểm kiểm tra miễn dịch. Các protein điểm kiểm tra, chẳng hạn như PD-L1 trên tế bào khối u và PD-1 trên tế bào T, giúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch. Sự liên kết của PD-L1 với PD-1 giúp các tế bào T không giết chết các tế bào khối u trong cơ thể (bảng điều khiển bên trái). Việc ngăn chặn sự liên kết của PD-L1 với PD-1 bằng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (chống PD-L1 hoặc chống PD-1) cho phép các tế bào T tiêu diệt các tế bào khối u (bảng bên phải).
Liệu pháp miễn dịch sử dụng hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống lại ung thư. Hình ảnh động này giải thích một loại liệu pháp miễn dịch sử dụng các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch để điều trị ung thư.
• BCG (bacillus Calmette-Guérin): Ung thư bàng quang có thể được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch nội mô gọi là BCG. BCG được đưa ra trong một dung dịch được đặt trực tiếp vào bàng quang bằng một ống thông (ống mỏng).
Liệu pháp miễn dịch sử dụng hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống lại ung thư. Hình ảnh động này giải thích một loại liệu pháp miễn dịch được gọi là kích thích miễn dịch không đặc hiệu được sử dụng để điều trị ung thư.
Liệu pháp nhắm mục tiêu.
Liệu pháp nhắm mục tiêu là một loại điều trị sử dụng thuốc hoặc các chất khác để xác định và tấn công các tế bào ung thư nhất định. Liệu pháp nhắm mục tiêu có thể ít gây hại cho các tế bào bình thường hơn so với liệu pháp hóa trị hoặc xạ trị.
Các liệu pháp nhắm mục tiêu sau đây được chấp thuận cho những bệnh nhân bị ung thư bàng quang tiến triển tại chỗ hoặc đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể:
• Enfortumab vedotin là một kháng thể đơn dòng liên kết với một loại thuốc chống ung thư. Đây được gọi là liên hợp kháng thể-thuốc . Nó có thể được sử dụng cho những bệnh nhân bị ung thư trở nên tồi tệ hơn sau khi điều trị bằng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và hóa trị liệu ( liệu pháp dựa trên cisplatin hoặc carboplatin ).
• Erdafitinib là một chất ức chế tyrosine kinase . Thuốc có thể được sử dụng cho những bệnh nhân bị ung thư bàng quang có một số đột biến nhất định trong các gen FGFR và trở nên tồi tệ hơn sau khi điều trị bằng hóa trị liệu (liệu pháp dựa trên cisplatin hoặc carboplatin).
Bệnh nhân có thể tham gia thử nghiệm lâm sàng.
Đối với một số bệnh nhân, tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể là lựa chọn điều trị tốt nhất. Thử nghiệm lâm sàng là một phần của quá trình nghiên cứu ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện để tìm hiểu xem liệu phương pháp điều trị ung thư mới có an toàn và hiệu quả hay tốt hơn phương pháp điều trị tiêu chuẩn hay không .
Nhiều phương pháp điều trị ung thư tiêu chuẩn hiện nay dựa trên các thử nghiệm lâm sàng trước đó. Bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể nhận được phương pháp điều trị tiêu chuẩn hoặc nằm trong số những người đầu tiên nhận được phương pháp điều trị mới.
Những bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng cũng giúp cải thiện cách điều trị ung thư trong tương lai. Ngay cả khi các thử nghiệm lâm sàng không dẫn đến các phương pháp điều trị mới hiệu quả, chúng thường trả lời các câu hỏi quan trọng và giúp thúc đẩy nghiên cứu về phía trước.
Bệnh nhân có thể tham gia thử nghiệm lâm sàng trước, trong hoặc sau khi bắt đầu điều trị ung thư.
Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ bao gồm những bệnh nhân chưa được điều trị. Các thử nghiệm khác kiểm tra phương pháp điều trị cho những bệnh nhân mà bệnh ung thư không thuyên giảm. Ngoài ra còn có các thử nghiệm lâm sàng thử nghiệm các phương pháp mới để ngăn chặn ung thư tái phát ( tái phát) hoặc giảm tác dụng phụ của điều trị ung thư.
Các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra ở nhiều nơi trên cả nước. Thông tin về các thử nghiệm lâm sàng do NCI hỗ trợ có thể được tìm thấy trên trang web tìm kiếm các thử nghiệm lâm sàng của NCI . Các thử nghiệm lâm sàng do các tổ chức khác hỗ trợ có thể được tìm thấy trên trang web ClinicalTrials.gov .
Các xét nghiệm tiếp theo có thể cần thiết.
Một số xét nghiệm đã được thực hiện để chẩn đoán ung thư hoặc để tìm ra giai đoạn của ung thư có thể được lặp lại. Một số xét nghiệm sẽ được lặp lại để xem việc điều trị đang hoạt động tốt như thế nào. Các quyết định về việc tiếp tục, thay đổi hoặc ngừng điều trị có thể dựa trên kết quả của các xét nghiệm này.
Một số xét nghiệm sẽ tiếp tục được thực hiện theo thời gian sau khi điều trị kết thúc. Kết quả của các xét nghiệm này có thể cho biết tình trạng của bạn có thay đổi hay không hoặc ung thư có tái phát hay không . Những bài kiểm tra này đôi khi được gọi là kiểm tra theo dõi hoặc kiểm tra.
Ung thư bàng quang thường tái phát (trở lại), ngay cả khi ung thư ở bề ngoài . Giám sát của đường tiết niệu để kiểm tra tái phát là tiêu chuẩn sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư bàng quang. Giám sát đang theo dõi chặt chẽ tình trạng của bệnh nhân nhưng không đưa ra bất kỳ phương pháp điều trị nào trừ khi có những thay đổi trong kết quả xét nghiệm cho thấy tình trạng ngày càng tồi tệ hơn. Trong quá trình giám sát tích cực, một số kỳ thi và bài kiểm tra nhất định được thực hiện theo lịch trình thường xuyên. Giám sát có thể bao gồm nội soi niệu quản và các xét nghiệm hình ảnh.