Tác dụng phụ của xạ trị trong điều trị ung thư túi mật04/03/2013 - 0

   Xạ trị ung thư túi mật như thế nào?

   Các liều chùm tia năng lượng cao được giám sát nghiêm ngặt được chiếu vào các khu vực bị ảnh hưởng bởi bệnh ung thư. Bức xạ được đưa ra bên ngoài để điều trị ung thư túi mật bằng cách sử dụng máy X-quang được gọi là máy gia tốc tuyến tính chiếu các chùm bức xạ. Ưu điểm của việc sử dụng xạ trị để điều trị ung thư túi mật là giảm thiểu nguy cơ tổn thương các tế bào lành. Nó thường được sử dụng trong điều trị ung thư túi mật di căn. Xạ trị có thể được sử dụng để điều trị ung thư túi mật theo những cách sau:

     Sau phẫu thuật: Sau phẫu thuật cắt bỏ khối u túi mật, người bệnh sẽ tiến hành xạ trị để loại bỏ phần ung thư còn sót lại trong cơ thể như một phương pháp điều trị bổ trợ.

     Là phương pháp điều trị chính: Xạ trị được sử dụng như một phương pháp điều trị chính cho các giai đoạn tiến triển của ung thư túi mật.

     Điều trị giảm nhẹ: Xạ trị được thực hiện cho bệnh nhân để giảm đau và các triệu chứng khác của bệnh ung thư túi mật ở giai đoạn nặng mà bệnh nhân không thể chữa khỏi và cải thiện chất lượng cuộc sống là mục đích điều trị.

   Các loại xạ trị ung thư túi mật:

   Để điều trị ung thư túi mật, tia xạ chủ yếu nhằm vào vùng túi mật và ổ bụng để tiêu diệt tế bào ung thư và thu nhỏ khối u. Sau đây là các loại liệu pháp xạ trị được sử dụng để điều trị ung thư túi mật:

   Xạ trị chùm tia bên ngoài (EBRT):

Để điều trị ung thư túi mật, phương pháp điều trị bằng tia bên ngoài sử dụng tia X để điều trị các khối u ung thư. Phương pháp điều trị này nhằm mục đích tiêu diệt các tế bào ác tính bằng cách hướng các chùm bức xạ ra bên ngoài bằng cách sử dụng một máy tia X được gọi là máy gia tốc tuyến tính. Quy trình liên quan đến việc chiếu bức xạ khi bệnh nhân được đặt xuống bàn và máy gia tốc tuyến tính di chuyển xung quanh người đó để chiếu bức xạ theo các góc độ khác nhau. Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân được ở một mình trong phòng và được theo dõi từ các camera đặt trong phòng để tránh bị lộ. Liều cao hơn và chính xác hơn được đưa ra để tránh các tác dụng phụ gây ra do làm hỏng các tế bào máu khỏe mạnh.

   Xạ trị hình ảnh ba chiều (3D-CRT):

   Phương pháp điều trị này là một loại EBRT tiên tiến hơn. Nó sử dụng máy tính chuyên dụng lập bản đồ chính xác vị trí của các khối u. Các chùm bức xạ được chiếu có hình dạng tương tự như các khối u và được đưa ra ở các góc độ khác nhau. Điều trị này giảm thiểu thiệt hại cho các mô khỏe mạnh.

   Xạ trị điều biến cường độ (IMRT):

   IMRT là một dạng 3D-CRT nâng cao. Quy trình này liên quan đến việc sử dụng các máy điều khiển bằng máy tính di chuyển bệnh nhân khi máy gia tốc phát bức xạ. Trong quá trình điều trị này, bức xạ được định hình và được đưa ra ở nhiều góc độ. Các bác sĩ có thể điều chỉnh cường độ của bức xạ trong quá trình điều trị.

   Chemoradiation:

   Xạ trị thường được đưa ra cùng với các phương pháp điều trị khác, đặc biệt là hóa trị để điều trị ung thư túi mật. Tỷ lệ thành công của EBRT khi được sử dụng kết hợp với các loại thuốc hóa trị liệu cao hơn nhiều so với chỉ một trong hai. Tuy nhiên, bệnh nhân phải có khả năng đối phó với các tác dụng phụ của cả hai phương pháp điều trị. Phương pháp điều trị này thường được đề xuất cho những bệnh nhân đã di căn ung thư túi mật.

   Tác dụng phụ của xạ trị ung thư túi mật:

   Xạ trị nhằm mục đích tiêu diệt các tế bào ung thư tại chỗ, trong quá trình này các tế bào khỏe mạnh cũng có thể bị tiêu diệt và đây là nguyên nhân dẫn đến tác dụng phụ của phương pháp điều trị này.

   Quan điểm:

   Tùy thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư túi mật, người bệnh phải chia sẻ tiền sử bệnh cùng với các thông tin y tế hữu ích và dị ứng để bác sĩ chuyên khoa ung thư kê đơn loại và liều lượng tia xạ. Chẩn đoán sớm ung thư túi mật có thể giúp điều trị thành công. Đối với các giai đoạn ung thư tiến triển, liều lượng bức xạ cao được đưa ra với độ chính xác để giảm tổn thương cho các tế bào khỏe mạnh còn lại.

 

   Xạ trị ung thư túi mật một mình không cho thấy kết quả thành công, nó thường được kết hợp với các phương pháp điều trị khác để tăng tỷ lệ sống sót. Nó được dùng cho những bệnh nhân bị ung thư túi mật giai đoạn nặng không thể loại bỏ chỉ bằng một lần điều trị.

   Tác dụng phụ của xạ trị trong ung thư túi mật:

   Trong quy trình này, các tế bào khỏe mạnh cũng bị tổn thương do đó bệnh nhân gặp phải các tác dụng phụ. Sau đây là những tác dụng phụ của xạ trị trong điều trị ung thư túi mật:

-          Mệt mỏi:

   Bệnh nhân cảm thấy cực kỳ mệt mỏi trong và sau khi tiếp xúc với bức xạ cao như vậy. Điều này cũng có thể kéo dài đến vài tuần sau khi điều trị.

-          Phản ứng da:

   Bức xạ gây bong tróc da, ngứa và phồng rộp. Ở những vùng được điều trị và phần bên kia của cơ thể nơi được điều trị, da có thể chuyển sang màu sẫm hoặc đỏ. Những khu vực này thậm chí có thể cảm thấy đau. Cơn đau nhức này có thể kéo dài đến hai đến bốn tuần sau khi điều trị.

-          Bệnh tiêu chảy:

   Xạ trị ung thư túi mật có thể gây viêm niêm mạc ruột gây tiêu chảy. Điều này thậm chí có thể dẫn đến chuột rút và phân bất thường.

-             Buồn nôn và ói mửa:

   Khi bức xạ được chiếu vào túi mật, ảnh hưởng của bức xạ cũng được nhìn thấy trên các cơ quan xung quanh như dạ dày và ruột. Điều này gây ra rối loạn tiêu hóa, có thể dẫn đến nôn mửa và suy nhược.

-          Các vấn đề về ăn uống:

   Khi xạ trị ung thư túi mật di căn, bệnh nhân thường cảm thấy ợ chua và khó tiêu do họ gặp vấn đề trong chế độ ăn uống thường ngày.

-             Giảm cân:

   Chán ăn trong hoặc sau khi điều trị khiến bệnh nhân sụt cân nghiêm trọng, đặc biệt khi xạ trị ung thư túi mật kết hợp với các phương pháp điều trị khác.

-          Bất thường về số lượng tế bào máu:

   Liều lượng bức xạ cao có thể làm giảm số lượng tế bào máu trong cơ thể. Sự tổn thương của các tế bào máu khỏe mạnh trong quá trình điều trị có thể gây ra sự bất thường về số lượng tế bào máu có thể dẫn đến những điều sau đây:

     Thiếu máu: Lượng hồng cầu giảm xuống khiến cơ thể suy nhược nghiêm trọng.

     Nhiễm trùng: Số lượng bạch cầu thấp hơn khiến bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng.

     Chảy máu: Số lượng tiểu cầu giảm có thể gây khó khăn trong quá trình đông máu.

-          Suy thận:

   Khi bức xạ được đưa ra để điều trị ung thư túi mật di căn, nó cũng có thể ảnh hưởng đến thận và có thể gây suy thận, đây là tình trạng giảm thiểu khả năng lọc nước của thận ra khỏi cơ thể. Điều này thậm chí có thể ảnh hưởng đến bàng quang.

-          Vấn đề tim mạch:

   Bức xạ được chiếu vào bất kỳ bộ phận nào của cơ thể có thể gây rối loạn huyết áp và nhịp tim, về lâu dài có thể dẫn đến các vấn đề về tim.

-          Rụng tóc:

   Xạ trị cũng có tác động đến các nang tóc. Vì chúng rất nhạy cảm, phương pháp điều trị này có thể gây rụng tóc nghiêm trọng.

-          Tổn thương gan:

   Khi bức xạ được chiếu vào túi mật, gan bị ảnh hưởng có thể gây ra rối loạn hoạt động của gan.

   Hầu hết các tác dụng phụ sẽ biến mất trong vòng một đến hai tuần sau khi điều trị. Nhưng bệnh nhân phải đối phó với các tác dụng phụ lâu dài cho đến cuối đời. Để giảm tác động của các tác dụng phụ trên lên cơ thể, người bệnh phải tuân thủ một kế hoạch theo dõi nghiêm ngặt và có theo dõi sau khi điều trị.

-          Sau khi điều trị:

   Chăm sóc sau điều trị là rất quan trọng đối với bất kỳ bệnh hoặc phương pháp điều trị nào, thậm chí còn hơn thế đối với các tình trạng có thể ở giai đoạn cuối hoặc có các tác dụng phụ nghiêm trọng.

Cùng ch đề