Viêm quanh móng cấp tính21/03/2017 - 0

Viêm quanh móng thường là cấp tính, nhưng trường hợp mãn tính có thể xảy ra. Trong viêm quanh móng cấp tính, các sinh vật gây bệnh thường là Staphylococcus aureus hoặc streptococci và ít gặp hơn, Pseudomonas hoặc là Proteus spp. Các sinh vật xâm nhập qua lớp thượng bì bị phá vỡ như xước măng rô, chấn thương nếp gấp móng, mất lớp biểu bì hoặc kích ứng mãn tính (ví dụ như nước và chất tẩy rửa). Người bệnh bị nhiễm trùng khi cắn hoặc mút các ngón tay. Ở ngón chân, nhiễm trùng thường bắt đầu ở móng chọc thịt.

Các thuốc điều trị mới, như chất ức chế thụ thể thụ thể phát triển của thượng bì (EGFR), điều trị ức chế biểu hiện protein của rapamycin (mTOR), và ít phổ biến hơn là ức chế gen BRAF, có thể gây viêm quanh móng cùng với các thay đổi ở da khác. Cơ chế này chưa được hiểu hoàn toàn. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp dường như do thuốc gây ra, chẳng hạn như thông qua sự thay đổi trong chuyển hóa acid retinoic, chứ không phải do nhiễm trùng thứ phát.

Ở bệnh nhân tiểu đường và những người có bệnh mạch ngoại biên, viêm quanh móng ở ngón chân có thể đe dọa đến chi.

 

Các triệu chứng cơ năng và thực thể:

Viêm quanh móng phát triển dọc theo bờ móng ( bờ bên và / hoặc gần gần), qua hàng giờ tới nhiều ngày với biểu  móng và đôi khi bên dưới móng. Nhiễm trùng có thể lan đến mô mềm ở đầu ngón tay, gây ra chín mé. Hiếm khi, nhiễm trùng thâm nhập sâu vào ngón tay, đôi khi gây viêm gân gấp nhiễm trùng.

 

Chuẩn đoán:

 

 

Chẩn đoán bằng lâm sàng. Một số tình trạng da có thể gây ra những thay đổi tương tự như viêm quanh móng và cần được xem xét, đặc biệt khi điều trị ban đầu không có hiệu quả. Những tình trạng này bao gồm ung thư biểu mô tế bào vảybệnh nấm móng ở đầu gần, u hạt nhiễm khuẩn,viêm da mủ hoại thư, và herpetic whitlow.

 

 

        Điều trị:

·         Kháng sinh chống tụ cầu

·         Thoát mủ

Điều trị sớm là băng ấm hoặc ngâm ấm và sử dụng kháng sinh chống tụ cầu (ví dụ, dicloxacillin hoặc cephalexin 250 mg 4 lần/ngày, clindamycin 300mg 4 lần/ngày). Ở những vùng thường có S. aureus kháng methicillin, kháng sinh có hiệu quả chống lại sinh vật này (ví dụ, trimethoprim / sulfamethoxazole) nên được lựa chọn dựa trên kết quả kháng sinh đồ. Ở bệnh nhân tiểu đường và những người khác có bệnh mạch ngoại biên, nên theo dõi các dấu hiệu viêm mô bào hoặc nhiễm trùng nặng hơn (ví dụ như phù hoặc ban đỏ rộng hơn, hạch to, sốt).

Sưng nề mủ hoặc nhìn thấy mủ thì nên chích rạch dẫn lưu bằng máy Freer, thanh điều chỉnh nhỏ, hoặc lưỡi dao dao số 11 đưa vào giữa móng và nếp móng. Rạch da là không cần thiết. Một gạc mỏng gạc có thể được chèn vào từ 24 đến 48 giờ để cho phép thoát dịch.

Trường hợp gây ra bởi thuốc ức chế EGFR và kháng với các phương pháp điều trị thông thường đã điều trị thành công với huyết tương giàu tiểu cầu tự thân.

 

Cùng ch đề