Xạ trị ung thư ống mật.09/07/2018 - 0
-
Tham gia 27/09/2017
Xạ trị sử dụng các tia hoặc hạt năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư. Bức xạ không thường được sử dụng để điều trị ung thư ống mật, tuy nhiên, nó có thể được sử dụng theo những cách sau:
- Sau khi phẫu thuật loại bỏ ung thư: Đây được gọi là liệu pháp bổ trợ . Nó được sử dụng để tiêu diệt bất kỳ lớp tế bào ung thư nhỏ nào còn sót lại sau phẫu thuật nhưng quá nhỏ để có thể nhìn thấy. Không phải tất cả các bác sĩ đều đồng ý rằng xạ trị bổ trợ là hữu ích.
- Trước khi phẫu thuật các bệnh ung thư có thể lấy ra ngoài: Một số bác sĩ có thể sử dụng liệu pháp bức xạ trước khi phẫu thuật cho một số bệnh ung thư được cho là có thể cắt bỏ được (có thể tháo rời). Điều này được thực hiện để cố gắng thu nhỏ khối ung thư và giúp lấy nó ra ngoài dễ dàng hơn. Đây được gọi là liệu pháp bổ trợ tân sinh . Không rõ điều này hữu ích như thế nào.
- Là một phần của liệu pháp chính đối với một số bệnh ung thư tiến triển: Xạ trị cũng có thể được sử dụng như một liệu pháp chính cho một số bệnh nhân mà ung thư chưa lan rộng khắp cơ thể nhưng không thể loại bỏ bằng phẫu thuật. Tuy điều trị trong trường hợp này không mang lại hiệu quả chữa khỏi bệnh nhưng nó có thể giúp bệnh nhân sống lâu hơn.
- Như liệu pháp giảm nhẹ: Xạ trị thường được sử dụng để giảm bớt các triệu chứng khi bệnh ung thư đã quá nặng không thể chữa khỏi. Thuốc có thể giúp giảm đau hoặc các triệu chứng khác bằng cách thu nhỏ các khối u làm tắc nghẽn ống mật hoặc mạch máu hoặc đè lên dây thần kinh.
Hai loại xạ trị chính là xạ trị tia bên ngoài (EBRT) và liệu pháp điều trị bằng tia xạ. EBRT là dạng bức xạ phổ biến nhất đối với ung thư ống mật.
Xạ trị chùm tia bên ngoài (EBRT).
Trong loại xạ trị này, một máy sẽ gửi tia X đến một bộ phận cụ thể của cơ thể bệnh nhân để tiêu diệt tế bào ung thư.
Trước khi điều trị của bạn bắt đầu, nhóm xạ trị sẽ thực hiện các phép đo cẩn thận để xác định góc chính xác để nhắm các chùm bức xạ và liều lượng bức xạ thích hợp. Phương pháp điều trị giống như chụp X-quang, nhưng bức xạ mạnh hơn nhiều. Bản thân thủ tục này không gây đau đớn. Mỗi lần điều trị chỉ kéo dài vài phút, nhưng thời gian thiết lập - đưa bạn vào vị trí điều trị - thường mất nhiều thời gian hơn. Thông thường, các đợt xạ trị được thực hiện 5 ngày một tuần trong nhiều tuần. Đây là một số cách EBRT có thể được cung cấp:
Xạ trị hình ảnh ba chiều (3D-CRT) sử dụng máy tính đặc biệt để lập bản đồ chính xác vị trí của (các) khối u. Các chùm bức xạ sau đó được định hình và nhắm vào (các) khối u từ nhiều hướng, điều này làm cho nó ít có khả năng làm tổn thương các mô bình thường hơn. Nó có thể được sử dụng để điều trị ung thư ống mật trong gan khu trú mà không thể loại bỏ bằng phẫu thuật.
Xạ trị điều biến cường độ (IMRT) là một dạng 3D-CRT tiên tiến. Nó sử dụng một cỗ máy điều khiển bằng máy tính di chuyển xung quanh bạn khi nó phát ra bức xạ. Cùng với việc định hình các chùm tia và hướng chúng vào khối ung thư từ nhiều góc độ, cường độ (độ mạnh) của chùm tia có thể được điều chỉnh để hạn chế liều lượng tiếp cận các mô bình thường nhạy cảm nhất. Điều này cho phép các bác sĩ cung cấp một liều thậm chí cao hơn cho bệnh ung thư.
Xạ trị toàn thân lập thể (SBRT) sử dụng kỹ thuật 3D-CRT và IMRT, nhưng cho liều lượng bức xạ cao trong thời gian ít hơn. Một đợt điều trị SBRT có thể mất một hoặc 2 tuần, trong khi một đợt xạ trị bằng các kỹ thuật khác thường kéo dài từ 3 đến 6 tuần.
Chemoradiation là khi hóa trị (hóa trị) được thực hiện cùng với EBRT để giúp nó hoạt động tốt hơn. Nó có thể được thử ở một số bệnh nhân bị ung thư ống mật quanh vùng sớm trước khi thực hiện ghép gan. Hạn chế chính của phương pháp này là các tác dụng phụ có xu hướng tồi tệ hơn so với việc chỉ xạ trị.
Tác dụng phụ EBRT.
Một số tác dụng phụ phổ biến của ERBT để điều trị ung thư ống mật bao gồm:
- Thay đổi da, từ mẩn đỏ đến phồng rộp và bong tróc (ở vùng đang được điều trị)
- Buồn nôn và ói mửa
- Bệnh tiêu chảy
- Mệt mỏi (mệt mỏi)
- Rụng tóc (trên da ở khu vực được điều trị)
- Số lượng tế bào máu thấp
- Tổn thương gan
Các tác dụng phụ do bức xạ thường bắt đầu sau một hoặc 2 tuần điều trị, và thường thuyên giảm theo thời gian sau khi điều trị kết thúc.
Brachytherapy (xạ trị bên trong).
Phương pháp điều trị này sử dụng các viên nhỏ chất phóng xạ được đưa vào bên cạnh hoặc ngay vào khối u. Bức xạ truyền đi một khoảng cách rất ngắn, vì vậy nó ảnh hưởng đến ung thư mà không gây hại nhiều đến các mô cơ thể khỏe mạnh lân cận. Đối với ung thư ống mật, liệu pháp brachytherapy đôi khi được thực hiện với một dây phóng xạ mỏng được đưa vào ống mật trong một thời gian ngắn. Đây có thể được gọi là liệu pháp điều trị não trong mật. Brachytherapy có thể được sử dụng một mình hoặc nó có thể được sử dụng cùng với EBRT. Tại thời điểm này, nó chủ yếu được sử dụng như một phương pháp điều trị giảm nhẹ.